‘Cha còn sống không để râu, mẹ còn sống không chúc thọ’?

Người xưa thường dặn con cháu: ‘Cha còn sống không để râu, mẹ còn sống không chúc thọ’? Tuy vậy, ít ai hiểu hết được câu nói này.
Khi vượt qua tuổi 50 và cha mẹ vẫn còn sống, thường tốt nhất là không tổ chức lễ mừng thọ. Điều này thể hiện sự hiếu thảo và tôn trọng đối với cha mẹ.

Có những câu thành ngữ từ thời xưa vẫn được truyền miệng đến ngày nay, nhưng hiếm khi ai hiểu hết ý nghĩa của chúng. Một trong số đó là câu: “Cha còn sống không để râu, mẹ còn sống không chúc thọ”. Ý nghĩa của câu này có thể được giải thích như sau:

Mẹ còn sống không chúc thọ

Cụm từ này nói lên ý nghĩa rằng, khi mẹ còn sống, không nên tổ chức lễ mừng thọ quá lớn lao. Tuy nhiên, ở đây “chúc sinh” không chỉ đơn giản là “sinh nhật”, mà thực ra là “mừng thọ”.

Theo quan điểm của người xưa, khi vượt qua tuổi 50 nhưng cha mẹ vẫn còn sống, việc tốt nhất là không nên tổ chức lễ mừng thọ. Điều này cũng là cách thể hiện lòng hiếu thảo và sự tôn kính đối với cha mẹ.

Tại sao lại có sự nhấn mạnh: “Khi mẹ còn sống không chúc sinh”? Trong quá trình mẹ mang thai và sinh con, điều này thực sự gian nan và vất vả. Người con nên nhớ và biết ơn công lao của mẹ trong việc sinh ra và nuôi dưỡng mình.

Ý nghĩa của câu: “Cha còn sống không để râu, mẹ còn sống không chúc thọ” là, những người hiểu biết và biết ơn sẽ không chỉ tổ chức sinh nhật cho bản thân vào ngày đó, mà còn nhớ tới mẹ của họ, người đã trải qua nhiều gian khổ để sinh ra họ. Họ không chỉ quên đi ngày sinh của mẹ mà còn quan tâm, thăm viếng và bày tỏ lòng biết ơn với đấng sinh thành khi họ còn sống.

Khi cha mẹ vẫn còn sống, con cái cần phải quý trọng và biết ơn, không để đến khi “Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, con cái muốn phụng dưỡng, báo hiếu mà cha mẹ không còn tại thế”, lúc đó chỉ còn lại sự tiếc nuối.

Cha còn sống không để râu quá dài

Trong thời kỳ cổ đại của Trung Quốc, nam giới đến tuổi trưởng thành thường để râu, nhưng tiêu chuẩn cho việc này thay đổi theo từng triều đại khác nhau. Ví dụ, ở triều đại Hán, tuổi trưởng thành là 16, trong khi ở triều đại Đường là 18 và sau đó lại thay đổi thành 22.

Trong “Hiếu kinh,” có một đoạn nói: “Thân thể, mái tóc, làn da, là của cha mẹ ban cho, con cái không dám làm hư hại.” Điều này ám chỉ rằng râu và tóc của người xưa không thể tự ý thay đổi, và đó cũng là cách thể hiện lòng hiếu thảo.

Và “cha còn sống không để râu dài” có nghĩa là sau khi cha còn sống, con trai không nên để râu phía trước mặt cha để thể hiện sự tôn trọng. Cha thường là trụ cột của gia đình và vì gia đình mà hy sinh nhiều, do đó, từ góc độ hiếu thảo, con cái nên tôn trọng người lớn tuổi và không để râu quá dài.

Thông thường, sau khi cha mất, con trai nên để râu phía trên môi, và sau khi mẹ mất, con trai nên để râu ở dưới môi và cằm. Khi cả cha và mẹ đều qua đời, vẫn nên để râu để thể hiện sự “không màng lợi danh, định rõ chí hướng.”

Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, khái niệm về thẩm mỹ đã thay đổi và đàn ông không còn để râu như trước nữa.

Tình yêu thương của cha mẹ luôn là vô điều kiện và không đòi hỏi sự trả đũa. Họ quan tâm đến bình an và hạnh phúc của con cái hơn là những sự kiện lễ hội hay việc để râu.

“Bách thiện hiếu vi tiên” là phản ánh của lòng hiếu thảo, lòng hiếu kính trong văn hóa dân tộc. Giới trẻ nên tiếp thu và giữ gìn những giá trị tốt đẹp này để tôn vinh truyền thống hiếu thảo của dân tộc.

Tại sao ở Mỹ đi học không cần phải quay cóp?

Trong mỗi lớp học, hơn chục học trò, mỗi đứa có một sở trường riêng. Và thầy cô giáo, cũng như hệ thống giáo dục có nghĩa vụ nương theo thế mạnh cá nhân của từng đứa học trò, phát triển chúng thành một con người theo đúng sở trường mà chúng có.

Khi lái xe chở cậu nhóc, mình hay hỏi nó chuyện ở trường. Nhân chuyện học toán, cậu nhóc kể: “Ngồi cạnh con là một thằng bạn người Brazil, nó đặc biệt… dốt môn toán, một bài 10 câu, nó may lắm thì giải được 3, trong đó có hơn 2 câu sai! Nó nói với con, tao học toán không được!”

Mình hỏi cậu nhóc: “Thế cậu ấy có hay… chép bài của con không, vì ngồi cạnh mà?” Cậu nhóc… ngơ ngác mất vài giây, rồi lắc đầu: “Không, không đời nào, ở lớp con không có ai chép bài của ai cả!”

Mình sực nhớ, nhưng hỏi thêm: “Do các bạn tự giác à?” Cậu nhóc lắc đầu: “Không, đâu có cần phải chép, vì mỗi người có sở trường riêng mà.” Và cậu nhóc kể thêm, ví dụ cái cậu người Brazil kia, cậu ấy học… thể dục, chơi thể thao rất hay.

Vâng, đó là một thực tế. Trong mỗi lớp học, hơn chục học trò, mỗi đứa có một sở trường riêng. Và thầy cô giáo, cũng như hệ thống giáo dục có nghĩa vụ nương theo thế mạnh cá nhân của từng đứa học trò, phát triển chúng thành một con người theo đúng sở trường mà chúng có.

Ở kỳ trước mình đã kể, khi lên cấp trung học, mỗi học trò có quyền chọn những môn theo học mà chúng thích. Vì vậy, khi tốt nghiệp trung học, lên đại học, một đứa có thể… bơi rất giỏi, nhưng học toán ngang với một đứa vừa vô lớp 6! Không sao, nó sẽ trở thành vận động viên bơi lội. Và Michael Phelps thì không nhất thiết phải đem theo toán tích phân, hay hình học không gian nhảy xuống hồ bơi, để lượm cả rổ huy chương Thế vận hội.

Chính vì cách học, cách bước chân vào đời theo thế mạnh cá nhân, nên việc một ai đó bỏ ngang đại học, nhưng vẫn thành công là chuyện khá phổ biến ở Mỹ. Khi bước chân vô trường, tôi có quyền chọn môn học, chọn thầy dạy, cho đến một hôm, tôi thấy chẳng có môn nào, chẳng có thầy nào thích hợp với tôi thì tôi… tự làm thầy của mình. Việc này hoàn toàn bình thường, hay ít nhất cũng chẳng đáng ngạc nhiên lắm, so với những nơi có lối học hành, khởi nghiệp bắt buộc phải theo khuôn phép, theo hệ thống.

Và chính cách giáo dục này đã gần như loại bỏ hoàn toàn việc sao chép, đối phó một cách tự nhiên nhất. Người ta học khi cần, khi thích, khi hứng thú…

Nói thiệt tình, hồi trước, khi còn đi học, mình đã tự cho phép mình có cách học này. Mình xin nói thẳng ra ở đây, mà chẳng có gì phải xấu hổ, thuở đi học mình toàn quay cóp. 10 môn học ở trường, để vượt qua các kỳ thi, mình quay cóp hết 9 môn. Bởi mớ kiến thức ấy chẳng giúp gì cho mình hết.

Ngược lại, mình lại hứng thú, say mê trong việc tự học, thông qua đọc sách, chẳng ai bắt đọc cũng vẫn tự giác đọc. Và kết quả, mình đã học một đằng và coi như thành công một nẻo, bởi mình đã học theo cách mà mình hứng thú và đi theo được con đường do chính mình tự học.

Trở lại việc học của thằng nhóc. Vì ngay từ nhỏ, mỗi học trò được phép phát triển theo thế mạnh riêng, kỹ năng riêng, nên chính vì vậy các môn học không có môn nào là chính, môn nào là phụ. Khi bước chân vào đời, tạo thành một cộng đồng rộng lớn, cũng chẳng ai là chính, chẳng ai là phụ, mọi mắt xích cá nhân tự nhiên kết nối với nhau và mắt xích nào cũng quan trọng.

Có giáo sư toán học thì cũng có anh công nhân xây nhà. Có nhà văn Nobel thì cũng có chị kế toán. Và cũng một cách tự nhiên nhất, không ai mang mặc cảm, cũng chẳng ai dám vênh vang là nghề của tao sang trọng hơn nghề của mày.

Trong một công ty, sếp đối xử với nhân viên, nhân viên đối xử với sếp, nếu không bằng vai phải lứa thì chí ít cũng chẳng có gì phải quỵ lụy, mặc cảm, tươm tướp nghe lời. Vì sự tự tin, tự tôn đã là chuyện ăn vô máu.

Và hầu hết mọi nghề nghiệp, mọi mắt xích xã hội đều có nhân lực đáp ứng. Không hề có chuyện dư thừa hàng triệu cử nhân, nhưng lại thiếu hàng triệu công nhân kỹ thuật lành nghề – vì cái giá trị ảo, cứ phải cử nhân, giáo sư, tiến sĩ mới “mở mắt ra được với đời” – kết quả là tiến sĩ thì thừa, chẳng biết nhét vô đâu, trong khi công nhân kỹ thuật thì lại không biết kiếm chỗ nào để vận hành các nhà máy.

Và vì thế, trong hệ thống giáo dục, cũng vô cùng hiếm hoi việc, ai đó phải gian lận, đối phó trong thi cử, mua bán bằng cấp để đáp ứng một tiêu chí ảo nào đó, trong việc dấn thân. Mọi thứ phải là thực, dĩ nhiên phải là thực, vì cấu trúc xã hội, thiết chế giáo dục ngay từ nhỏ đã liên đới, cân bằng, tạo mọi điều kiện để cá nhân phát triển.

Tất nhiên, nền giáo dục ở Mỹ vẫn chưa hề hoàn hảo, nó vẫn còn những điểm yếu chỗ này, chỗ khác. Nhưng chí ít, cái nền tổng thể của nó là như vậy. Và xã hội tự do vận hành sẽ quay ngược lại điều chỉnh chính nền giáo dục ấy, bắt buộc nền giáo dục ấy phải tự điều chỉnh để thích nghi, nếu có chỗ nào đó chưa theo kịp.

Nguyễn Danh Lam (Nhà văn Việt Nam sống ở Mỹ)

Nguồn: Gia Đình Mới

Leave a comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *